“Hành trình về phương đông” là một phần trong bộ hồi ký nổi tiếng của giáo sư Blair T. Spalding. Ở đó, Tây và Đông gặp nhau. Khoa học và minh triết gặp nhau. Cái hiện đại và cái cổ xưa gặp nhau.
Thông
tin
Tên sách: Hành trình về phương Đông
Tác giả: Blair T.Spalding
Dịch giả: Nguyên Phong
Ấn hành: NXB Hồng Đức
Số trang: 256
Giá bìa: 64.000đ
Giới thiệu sách
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối
với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà
khoa học, nhà triết học. Nhưng chỉ chừng cách đây một thế kỷ thì vấn đề không
còn đơn giản như vậy. Bấy giờ, với thói duy khoa học và cái nhìn Âu tâm luận,
người ta coi phương Đông mà phần lớn là thuộc địa của người châu Âu, là một xứ
sởlạchậu, cần được khai phá văn minh. Bởi thế, mọi tiếp xúc, nghiên
cứu học hỏi nền văn hóa thấp kém bản địa đều bị coi là kỳ quặc, thậm chí là xúc
phạm.
“Hành trình về
phương đông” là một phần trong bộ hồi ký nổi tiếng của giáo sư Blair T.
Spalding (1857 – 1953). Nguyên tác“Life and Teaching of the Masters
of the Far East”(xuất bản năm 1935). Cuốn sách kể
chuyện một đoàn khoa học gồm các chuyên môn khác nhau Hội Khoa học Hoàng gia
Anh (tức Viện Hàn lâm Khoa học) cử sang Ấn Độ nghiên cứu về “huyền học”. Sau
hai năm trời lang thang khắp các đền chùa Ấn Độ, chứng kiến nhiều cảnh mê tín dị
đoan, thậm chí “làm tiền” du khách, của nhiều pháp sư, đạo sĩ rởm, họ được tiếp
xúc với những vị chân tu sống ẩn danh ở thành phố hay trên rặng Tuyết Sơn. Nhờ
thế, họ được chứng kiến, hiểu biết đúng đắn về các khoa học cổ xưa và bí truyền
của văn hóa Ấn Độ như yoga, thuật chiêm tinh, các phép dưỡng sinh và chữa bệnh,
quan niệm về cõi sống và cõi chết.
Sau những hoài nghi, choáng váng ban đầu, với sự trung thực trí
thức, các nhà khoa học bắt đầu vỡ ra một chân lý tưởng như đơn giản “ngoài trời
còn có trời”. Họ thấy cần phải xét lạicác quan niệm về khoa học của mình,
như tính kháchquan, tính đếm được, tính thực nghiệm… Có thể có một thứ khoa
học khác không hoàn
toàn tuân theo các nguyên tác của phòng thí nghiệm, mà theo các định luật vũ
trụ, nhưng trình độ hiện thời còn chưa chứng minh, giải thích được. Thành kiến
dĩ Ân vi trung đã được tháo bỏ.
Đúng lúc một đối thoại cởi mở và chân thành đang sắp
sửa hình thành giữa một bên là các nhà khoa học thực nghiêm châu Âu và bên
kialà các đạo sĩ Ấn Độ, thì đoàn khoa học Anh quốc nhận được tối hậu thư
của chính phủ là phải ngừng nghiên cứu và tức khắc hồi hương. Và muốn giữ được
nguyên chức vụ thì họ phải im lặng, không phát ngôn về những gì họ đã chứng
nghiệm ở Ấn Độ. Một vài nhà khoa học trong đoàn đã không chấp nhận. Họ ở lại Ấn
Độ để tiếp tục nghiên cứu và cuối cùng trở thành tu sĩ. Trong số đó có giáo sư
Spalding – tác giả cuốn sách này.
Những tiên cảm của các khoa học gia Anh quốc ngày nào nay đã trở
thành hiện thực. Vật lý học hiện đại với vĩ mô vật lý và vi mô vật lý hạ nguyên
tử đã mang lại quan niệm mới, sâu sắc hơn, về khoa học. Đặc biệt là quan niệm
này lại tương ứng với quan niệm của đạo học phương Đông (Ấn giáo, Thiền học,
Lão học…). Có
thể thấy điều này trong những cuốn sách nổi tiếng Đạo của vật lý của
F.Capra (Trẻ, in lần 2, 1999), Cái vô hạn trong lòng bàn tay (Trẻ, in lần 2, 2000) và nhiều
tác phẩm khác của Trịnh Xuân Thuận…
Hành trình về phương Đông nay đã trở thành một thông lộ. Tây và Đông đã gặp nhau. Khoa học
và minh triết đã gặp nhau. Cái hiện đại và cái cổ xưa đã gặp nhau. Thế giới, vì
vậy đã trở nên hài hòa hơn, phẳng hơn và, do đó, nhân văn hơn.
Trích đoạn
đặc sắc
“Babu
nhìn lên bầu trời đầy sao trầm ngâm:
Mọi
vật trong vũ trụ đều quân bình tuyệt đối, không dư, không thiếu, từ hạt bụi bé
nhỏ đến những dãy thiên hà vĩ đại. Đời người quá ngắn, và luôn bị lôi cuốn vào
sinh hoạt quay cuồng. Đâu mấy ai ý thức được sự phung phí hôm nay, dọn đường
cho sự đau khổ ngày mai. Tất cả chỉ là những ảo ảnh chập chờn, thế mà người ta
cứ coi như thật. Nếu biết thức tỉnh quan sát, ta có thể học hỏi biết bao điều
hay. Tiếc rằng khi đắc thời người ta quên đi quá khứ rất nhanh. Chỉ trong đau
khổ, nhục nhã ê chề mới chịu học. Có thể đó cũng là lý do luôn luôn có các biến
động vô thường, thúc dục con người học hỏi.
–
Ông nghĩ rằng con người sẽ học hỏi trong đau khổ.
Babu
thở dài:
–
Đúng thế, chúng ta có tính hay quên, nên cứ phải học đi, học lại cái bài học
khổ. Chỉ khi bị khổ sở, bị đàn áp, tự do bị chà đạp, con người mới quay về với
niềm hy vọng cuối cùng là đức tin. Khi sung sướng ít ai nghĩ đến việc tu thân
cầu giải thoát. Khi cơ thể bệnh hoạn, ta mới thấy khoẻ mạnh là hạnh phúc. Khi
bị tù đày, ta mới thấy giá trị của tự do. Tiếc rằng khi khỏi bệnh, ta không ý
thức nguyên nhân đã gây nên bệnh đó, mà lại tiếp tục một đời sống như trước; do
đó, ta cứ bị bệnh hoài.” (Trích từ chương III của sách)
Sách hiện có bán tại Solo.vn, bạn có thể đặt
mua online tại
đây để sở hữu với mức giảm giá đặc biệt.