Lạm phát, thanh khoản, tỷ giá, lãi suất… là những điểm sáng nổi bật thể hiện đậm nét dấu ấn điều hành CSTT của NHNN năm 2012.
Đằng sau những lăng kính
Năm 2012, chúng ta đã chứng kiến một năm
đi qua với những biến động đầy “bĩ cực”. Năm mà theo nhận định của TS.
Võ Trí Thành – Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung
ương: “khó khăn chưa từng thấy, khó khăn đến mức chính các chuyên gia
kinh tế, các nhà khoa học cũng không lường hết”.
Nhìn ra thế giới, thấy đặc những mảng
đen, nào khủng hoảng nợ công châu Âu, nào suy thoái kéo dài của cả nền
kinh tế các quốc gia phát triển và mới nổi, nào các bất ổn chính trị của
nhiều khu vực… Ngoảnh vào trong nước, gặp phải những bất ổn kinh tế
vĩ mô, những nợ xấu, hàng tồn kho, bất động sản đóng băng…
Tất cả như cùng “bắt tay” để tạo nên
những hiệu ứng dây chuyền lớn, gây ảnh hưởng nặng nề đến cỗ máy hoạt
động của nền kinh tế nói chung và hệ thống Ngân hàng Việt Nam nói riêng.
Có lẽ chưa bao giờ hai từ “Ngân hàng”
lại “hao tốn” nhiều tâm lực của báo giới, DN các chuyên gia kinh tế… như
năm 2012. Từ nghị trường của Quốc hội đến quán nước vỉa hè, từ những
nhà điều hành kinh tế vĩ mô đến những người dân bình thường nhất, những
tranh biện về ngành Ngân hàng đã luôn trở thành tâm điểm nóng. Điều đó
cũng chứng tỏ vai trò của một ngành kinh tế nhạy cảm, mang tính huyết
mạch của nước nhà lớn như thế nào.
Những tưởng trong một bối cảnh đậm tông
màu xám như thế, thật khó để có thể “điểm danh” cái gọi là “thành công”
khi nhìn lại hành trình một năm vượt dốc. Ấy vậy mà, với ngành Ngân
hàng, cuối năm, ngồi đối sánh lại, không chỉ hầu hết các mục tiêu, chỉ
số đều đã đạt được như kỳ vọng, mang lại hiệu ứng tích cực cho nền kinh
tế, mà còn sáng lên không ít những điểm nổi bật “làm đẹp” cho bức tranh
hoạt động Ngân hàng sau một năm đầy thách thức khi nhìn về lạm phát,
thanh khoản, tỷ giá, lãi suất… Đó cũng là những minh chứng sinh động cho
sự thành công trong điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt,
quyết liệt và hiệu quả của NHNN trong năm 2012.
Là những điểm sáng nổi bật
Còn nhớ, thời điểm tháng 12/2011, lạm
phát đang ở mức cao ngất ngưởng trên hai con số 18,13%, chỉ một năm sau –
2012, con số đó đã được hạ xuống 6,81%, vượt xa mức kỳ vọng. Con số
biết nói này, dù có tính cả yếu tố may mắn theo một vài ý kiến nào đó,
nhưng rõ ràng dấu ấn đậm nét về hiệu quả điều hành CSTT của NHNN là
không thể phủ nhận. Đặc biệt, vấn đề thanh khoản VND của toàn hệ thống
cũng được cải thiện mạnh mẽ, sẵn sàng đủ vốn để cung ứng cho DN và hộ
dân, giúp nền kinh tế lấy lại đà tăng trưởng. Nếu so với thời điểm này
năm ngoái, thì đây quả là một sự bứt phá đáng ghi nhận.
Cùng với lạm phát, thanh khoản thì lãi
suất cũng là một trong những điểm sáng thành công được các chuyên gia
đánh giá cao trong điều hành CSTT của NHNN. Chỉ trong vòng một năm, mặt
bằng lãi suất huy động và cho vay đã giảm mạnh về mức định hướng của
NHNN đề ra ngay từ đầu năm nhưng với lộ trình giảm nhanh hơn dự kiến.
Các mức lãi suất điều hành cũng đã được điều chỉnh giảm tới 6%/năm.
Trong đó, lãi suất huy động giảm từ 3-6%/năm và lãi suất cho vay giảm
5-9%/năm so với cuối năm 2011.
Hiệu quả từ đồng vốn ngân hàng với công trình thủy điện Sơn La
Theo ông Phạm Xuân Hòe – Phó Vụ trưởng
Vụ chính sách tiền tệ NHNN, mặt bằng lãi suất VND tính đến cuối năm 2012
đã giảm về mức lãi suất năm 2007, là thời điểm trước khi diễn ra cuộc
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Nhờ đó, đường cong
lãi suất cũng đang dần xác lập được hình dạng vốn có của nó khi lãi suất
trung và dài hạn cao hơn so với lãi suất ngắn hạn.
Nói đến thành công trong điều hành CSTT
của NHNN năm 2012, người ta không thể không nhắc đến một điểm sáng cũng
hết sức nổi bật trong bức tranh hoạt động ngân hàng ấy là sự “yên ả”
trên thị trường ngoại tệ. Nếu như trong suốt giai đoạn 2011 trở về
trước, VND luôn chịu áp lực phá giá, bên cạnh việc bán ngoại tệ can
thiệp, NHNN đã phải điều chỉnh tăng đối với tỷ giá bình quân liên ngân
hàng từ năm 2008 đến năm 2011 thì sang đến năm 2012, thặng dư cán cân
vãng lai và cán cân vốn đều ở mức cao giúp nguồn cung ngoại hối dồi dào,
trong khi cầu ngoại tệ được kiềm chế. Tình trạng đô la hóa giảm mạnh.
Cán cân thanh toán thặng dư lớn và dự trữ ngoại hối tăng hơn gấp đôi so
với cuối năm 2011 và lên mức cao nhất từ trước tới nay.
Để có sự bứt phá ngoạn mục này, đầu
tiên, phải kể đến cam kết mạnh mẽ của Thống đốc NHNN ngay từ đầu năm về
việc sẽ giữ ổn định tỷ giá ở mức 2-3%. Cam kết này thể hiện quyết tâm
của cơ quan điều hành, ổn định tâm lý thị trường và định hình kỳ vọng về
tỷ giá của công chúng. Cam kết này cũng được củng cố thêm bởi sự thành
công của cam kết trước đó trong năm 2011.
Thị trường ngoại hối và tỷ giá ổn định
đã tạo điều kiện cho các DN chủ động xây dựng kế hoạch sản xuất kinh
doanh. Tâm lý găm giữ ngoại tệ của người dân đã giảm đáng kể. Xu hướng
dịch chuyển tiền gửi ngoại tệ sang tiền gửi tiền VND liên tục được duy
trì trong cả năm. Đến cuối năm 2012, tiền gửi ngoại tệ của dân cư giảm
hơn 13% so với cuối năm 2011 trong khi tiền gửi bằng VND của dân cư tăng
36%. Tình trạng đô la hóa được đẩy lùi một bước, tỷ lệ tiền gửi bằng
ngoại tệ/M2 giảm còn dưới 13%.
Mặc dù, chưa nhận được sự đồng thuận
hoàn toàn của dư luận, nhưng năm 2012 cũng được đánh giá là năm ghi nhận
sự thành công bước đầu trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh vàng
thông qua việc tổ chức, sắp xếp lại một cách căn bản thị trường vàng
theo chủ trương, định hướng của Chính phủ.
Theo nhóm Nghiên cứu Ngân hàng, tiếp nối
năm 2011, năm 2012, NHNN đã có một hệ thống gói giải pháp khá toàn diện
để ngăn chặn tình trạng đô la hóa và vàng hóa trong nền kinh tế, đặc
biệt là việc Chính phủ ban hành Nghị định số 24/2012/NĐ-CP và các văn
bản hướng dẫn của NHNN. Nếu như những năm gần đây, tình trạng đô la hóa
và vàng hóa nền kinh tế Việt Nam ngày càng trở nên trầm trọng khiến cho
thị trường tiền tệ và thị trường ngoại hối biến động bất ổn, nguồn vốn
bị ứ đọng trong dân, không đưa được vào nền kinh tế thì năm 2012, tình
trạng đó đã bước đầu được cải thiện rõ rệt.
Kể từ khi Nghị định 24 có hiệu lực, hiện
tượng liên thông mang tính tiêu cực giữa giá vàng thế giới, giá vàng
trong nước và tỷ giá USD/VND đã gần như được loại trừ; tình trạng găm
giữ ngoại tệ đầu cơ hoặc dưới dạng tiết kiệm để dành giảm đáng kể; hiện
tượng nhập lậu vàng cũng đã không tái diễn như những năm trước, xóa bỏ
một kênh vốn dĩ xưa nay thường gây bất ổn cho thị trường ngoại hối và tỷ
giá.
Đồng nhận định trên, ông Nguyễn Quang
Huy, Vụ trưởng Vụ Quản lý ngoại hối phân tích, mặc dù giá vàng trong
nước và thế giới biến động mạnh, nhưng không như thời gian trước đây,
khoảng cách lớn giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới thường đi
kèm với hiện tượng “sốt vàng”. Nay, hiện tượng đó gần như không còn.
Mặc dù từ đầu năm đến nay, NHNN không
cho phép nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng, không thực
hiện bình ổn giá vàng nhưng hầu như không diễn ra việc thu gom ngoại tệ
trên thị trường tự do để nhập lậu vàng qua biên giới, nhờ đó, tỷ giá và
thị trường ngoại tệ ổn định, không bị tác động tiêu cực bởi sự biến động
của giá vàng.
Một trong những nhiệm vụ trọng yếu của
ngành Ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2015 nói chung và năm
2012 nói riêng là vấn đề cơ cấu lại và phát triển hệ thống các TCTD. Đây
cũng là một trong những vấn đề được dư luận quan tâm nhiều trong năm
2012.
Đến nay, sau một năm quyết liệt triển
khai cơ cấu lại hệ thống các TCTD, rủi ro hệ thống từng bước được kiểm
soát, nguy cơ đổ vỡ hệ thống từng bước được đẩy lùi. Hoạt động của các
TCTD về cơ bản an toàn, lành mạnh, trật tự kỷ cương thị trường đã được
khôi phục và duy trì ổn định.
Tình hình chi trả tiền gửi của dân cư
tại các ngân hàng yếu kém diễn ra bình thường. Điều đó cho thấy tâm lý
thị trường và lòng tin của công chúng đối với chủ trương, biện pháp cơ
cấu lại hệ thống ngân hàng đang ngày một cải thiện rõ nét.
Tìm sự cân bằng giữa các mục tiêu
Cột mốc 2012 đã khép lại. Với ngành Ngân
hàng, lát trên hành trình đó là những viên gạch hồng mang tên những
điểm sáng của lạm phát, thanh khoản, lãi suất, tỷ giá… như đã nói ở
trên. Nhưng mở ra phía trước, năm 2013 cũng còn lắm những nỗi âu lo,
thách thức đặt ra cho điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng cần quyết
liệt khắc phục và xử lý. Đó là: Tăng trưởng tín dụng thấp hơn nhiều so
với mục tiêu đề ra; hoạt động của hệ thống các TCTD về cơ bản an toàn
nhưng nợ xấu gia tăng; thanh khoản của toàn hệ thống các TCTD đã được
cải thiện đáng kể, nhưng chưa thực sự bền vững; tốc độ cơ cấu lại các
ngân hàng yếu kém vẫn còn chậm trễ…
Cùng với đó là những rủi ro, yếu kém
tiềm ẩn của nền kinh tế cũng nổi lên những điểm thách thức cho điều hành
CSTT. Nền kinh tế tăng trưởng chậm lại ở mức 5,03%; tình trạng DN khó
khăn và phá sản gia tăng; hàng tồn kho cao đang cản trở sự lưu thông vốn
trong nền kinh tế, yếu tố tâm lý trong lạm phát kỳ vọng hiện chưa được
neo bền vững… Rõ ràng những rủi ro, thách thức lớn nói trên lại một
lần nữa đặt gánh nặng lên vai CSTT.
Năm 2013 và những năm tới, làm thế nào
để thực hiện tốt sứ mệnh kép: vừa góp phần đảm bảo kinh tế vĩ mô ổn
định, tập trung kiềm chế lạm phát, vừa tiếp tục hỗ trợ thị trường, tháo
gỡ khó khăn cho DN quả là bài toán không dễ giải. Để tìm sự cân bằng
giữa các mục tiêu, khuyến nghị của các chuyên gia đưa ra là: NHNN cần
kiên trì CSTT thận trọng, linh hoạt để phát huy những thành quả đạt được
trong năm 2012 và chung tay cùng nền kinh tế vượt qua khó khăn hiện
tại.
Một điều không khó để thấy rằng, muốn
vực dậy thị trường, vực dậy nền kinh tế sẽ là không hiệu quả nếu chỉ
trông chờ vào một mình CSTT. Đúng như Trịnh Quang Anh – Giám đốc Trung
tâm Nghiên cứu Kinh tế Maritime Bank nói, nền kinh tế không thể chạy
nhanh bằng một chân, nếu không có sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng, chặt
chẽ giữa CSTT và chính sách tài khóa. Cùng với đó là nỗ lực vượt lên
chính mình trong quá trình tái cơ cấu của từng NHTM, mà trọng tâm là xử
lý nợ xấu và minh bạch hóa tài chính; tái cơ cấu tổ chức, hoạt động và
quản trị hệ thống ngân hàng, nhất là quản trị rủi ro.
Và một trong những vấn đề không thể
thiếu, góp phần quyết định thành công trong điều hành CSTT của NHNN đặt
ra cho năm 2013, như thông điệp mà Thống đốc Nguyễn Văn Bình đưa ra là,
cần lắm một sự đồng thuận cao của toàn xã hội, của các cấp, các ngành,
của dư luận và cộng đồng DN, nhà đầu tư… Nhất là trước những vấn đề nhạy
cảm như nợ xấu ngân hàng – được mệnh danh là “cục máu đông” của nền
kinh tế thì rõ ràng, nếu để chỉ một mình ngành Ngân hàng sẽ không thể xử
lý được nhanh, nếu không có sự chung tay của toàn xã hội, thậm chí là
của cả hệ thống chính trị, như lời của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng từng
phát biểu.
NHNN đã xây dựng 8 nhiệm vụ và giải pháp
lớn trọng tâm là: Một là, điều hành CSTT thận trọng, hiệu quả, phối
hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa.
Hai là, điều hành chặt chẽ tỷ giá và thị trường ngoại hối, linh hoạt theo tín hiệu thị trường, bảo đảm giá trị đồng Việt Nam.
Ba là, thực hiện các giải pháp về lãi
suất, tín dụng nhằm hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn, tiết kiệm chi phí,
tiếp tục tập trung vốn cho các lĩnh vực ưu tiên, các dự án hiệu quả và
sử dụng nhiều lao động.
Bốn là, triển khai đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD, thành lập công ty quản lý tài sản để xử lý nợ xấu.
Năm là, tiếp tục tập trung triển khai
đồng bộ, quyết liệt Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011 –
2015, kiện toàn và đẩy mạnh công tác thanh tra, giám sát ngân hàng.
Sáu là, đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng và thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế.
Bẩy là, tiếp tục hoàn thiện thể chế về hoạt động ngân hàng.
Và tám là tăng cường công tác thông
tin, tuyên truyền về chủ trương, chính sách của NHNN, của Chính phủ
nhằm ổn định tâm lý xã hội, tạo đồng thuận, thuận lợi trong việc triển
khai thực hiện.